Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam (VASEP) vừa gửi văn bản đến Bộ Tư pháp phản ánh nhiều bất cập trong hệ thống văn bản pháp luật đang tạo ra khó khăn cho doanh nghiệp thủy sản.
Khoảng trống pháp lý và những mâu thuẫn trong quy định gây khó khăn cho doanh nghiệp thủy sản trong nước
Theo thông tin từ Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam (VASEP), khoảng trống pháp lý liên quan đến “ngưỡng phát hiện tối thiểu của thiết bị (MRPL)” trong xét nghiệm kháng sinh cấm trong thủy sản đang gây ra nghịch lý khi nhiều sản phẩm đủ tiêu chuẩn xuất khẩu sang thị trường EU nhưng lại không thể tiêu thụ tại thị trường nội địa Việt Nam.
Theo VASEP, những vấn đề này được chia thành ba nhóm chính: quy định mâu thuẫn, chồng chéo; quy định gây tốn kém chi phí tuân thủ, hạn chế đổi mới sáng tạo; và các quy định không rõ ràng, khó khả thi.
Về thuế giá trị gia tăng (GTGT) đối với phế phẩm, phụ phẩm thủy hải sản, VASEP cho biết hiện nay có sự thiếu thống nhất trong cách áp dụng. Các cơ quan thuế địa phương cho phép phế liệu, phế phẩm chưa qua chế biến hoặc chỉ sơ chế thông thường không phải kê khai, tính nộp thuế GTGT. Tuy nhiên, lại áp dụng mức thuế 10% đối với phế phẩm từ những mặt hàng đã qua chế biến như luộc chín.
Điều này không phù hợp với quy định tại Thông tư 83/2014/TT-BTC, trong đó liệt kê đầu tôm, vỏ tôm, đầu cá, xương cá... là sản phẩm chưa chế biến hoặc chỉ sơ chế thông thường, không phải kê khai, tính thuế GTGT ở khâu kinh doanh thương mại dù là sản phẩm từ hàng sơ chế hay chế biến.
Sự mâu thuẫn này khiến doanh nghiệp phải tốn thêm nhân lực và chi phí để phân loại, tính toán hóa đơn cho cùng một loại phế liệu từ các dây chuyền sản xuất khác nhau, đồng thời gây khó khăn khi khách hàng không chấp nhận hai mức thuế suất khác nhau cho cùng một sản phẩm.
VASEP đề xuất Bộ Tài chính ban hành văn bản hướng dẫn thống nhất để tất cả các loại phế liệu, phế phẩm, phụ phẩm thủy hải sản dù là từ mặt hàng sơ chế hay chế biến, miễn kê khai và tính thuế GTGT ở khâu kinh doanh thương mại nếu chưa chế biến thành sản phẩm khác hoặc chỉ sơ chế thông thường.
Ngoài ra, VASEP cũng chỉ ra một số quy định khác đang tạo gánh nặng chi phí tuân thủ và hạn chế đổi mới sáng tạo trong ngành thủy sản. Tiêu biểu là Nghị định 37/2024/NĐ-CP về khai thác thủy sản quy định kích thước tối thiểu được phép khai thác của một số loài thủy sản sống trong vùng nước tự nhiên không phù hợp với thông lệ quốc tế, gây khó khăn cho ngư dân và doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, quy định cấm trộn lẫn nguyên liệu thủy sản nhập khẩu với nguyên liệu trong nước trong cùng một lô hàng xuất khẩu cũng thiếu định nghĩa rõ ràng, không phù hợp với thực tiễn và thông lệ quốc tế.
Đáng chú ý, khoảng trống pháp lý về “ngưỡng phát hiện tối thiểu của thiết bị (MRPL)” trong xét nghiệm kháng sinh cấm là nguyên nhân dẫn đến nghịch lý nhiều sản phẩm thủy sản đạt tiêu chuẩn xuất khẩu sang EU nhưng lại không thể lưu hành hoặc tiêu thụ trong nước.
Ngoài ra, hiện vẫn chưa có quy định hay hướng dẫn rõ ràng về việc chuyển mục đích sử dụng sản phẩm nhập khẩu dùng để sản xuất, gia công xuất khẩu sang tiêu thụ nội địa hoặc ngược lại, tạo thêm khó khăn cho doanh nghiệp trong hoạt động quản lý và kinh doanh.
Hiện nay, để phần nào giải quyết khoảng trống pháp lý liên quan đến "ngưỡng phát hiện tối thiểu của thiết bị (MRPL)" trong xét nghiệm kháng sinh cấm đối với thủy sản, Việt Nam đã ban hành Tiêu chuẩn quốc gia TCVN 8348:2010 về Thủy sản và sản phẩm thủy sản – Xác định dư lượng thuốc kháng sinh nhóm penicillin bằng phương pháp sắc ký lỏng hiệu năng cao (HPLC).
Tiêu chuẩn này quy định phương pháp phân tích nhằm xác định dư lượng các hợp chất penicillin trong thủy sản và sản phẩm thủy sản, qua đó góp phần bảo đảm an toàn thực phẩm và đáp ứng yêu cầu kỹ thuật của thị trường xuất khẩu. Việc áp dụng đồng bộ tiêu chuẩn này không chỉ hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm trong nước mà còn giúp giảm thiểu sự mâu thuẫn, chồng chéo trong hệ thống quy định hiện hành.
Yêu cầu nghiêm ngặt của EU đối với thủy sản nhập khẩu và thách thức trong việc tuân thủ tiêu chuẩn xuất khẩu
Liên quan tới tiêu chuẩn xuất khẩu thủy sản sang EU, theo thông tin từ Trung tâm WTO và Hội nhập (VCCI), các quốc gia và cơ sở chế biến phải đáp ứng một số yêu cầu bắt buộc nhằm đảm bảo an toàn thực phẩm và tuân thủ các tiêu chuẩn nghiêm ngặt của EU.
Trước khi xuất khẩu thủy sản sang EU, quốc gia xuất khẩu phải được các cơ quan có thẩm quyền của EU công nhận. Điều này đòi hỏi quốc gia đó phải có quy định và năng lực để đảm bảo rằng thủy sản sản xuất trong nước đáp ứng các yêu cầu về an toàn thực phẩm của EU và không gây ra mối đe dọa cho người tiêu dùng. Các quy định của EU về vệ sinh thực phẩm bao gồm tất cả các giai đoạn sản xuất, chế biến, phân phối và đưa ra thị trường.
Các quy tắc vệ sinh của EU bao gồm: Người kinh doanh thực phẩm chịu trách nhiệm chính về an toàn thực phẩm; Đảm bảo an toàn thực phẩm trong toàn bộ chuỗi thực phẩm, bắt đầu từ công đoạn sản xuất; Thực hiện các quy trình dựa trên nguyên tắc phân tích mối nguy và các điểm kiểm soát tới hạn (HACCP); Áp dụng các yêu cầu vệ sinh cơ bản, có thể được quy định thêm đối với một số loại thực phẩm.
EU đặt ra quy định nghiêm ngặt và phức tạp về mức dư lượng tối đa (MRL) đối với thủy sản. Các mức này được nêu cụ thể trong các văn bản quy định khác nhau. Với mỗi lô hàng thủy sản, nhà xuất khẩu phải chứng minh sản phẩm không vượt quá mức dư lượng tối đa liên quan bằng cách cung cấp giấy chứng nhận sức khỏe (Health certificate) do phòng thí nghiệm được công nhận cấp.
Các quy định cần lưu ý khi xuất khẩu thủy sản sang EU bao gồm: Quy định (EC) số 470/2009 đưa ra quy trình thiết lập MRLs đối với dư lượng các hoạt chất dược lý trong thực phẩm có nguồn gốc động vật, chẳng hạn như thuốc kháng sinh.
Định kỳ hai năm một lần, một nhóm thanh tra của các cơ quan có thẩm quyền của EU sẽ đến quốc gia xuất khẩu, gặp mặt cơ quan có thẩm quyền ở đất nước đó. EU sẽ kiểm tra các hệ thống được áp dụng và đi thăm một số cơ sở trong toàn bộ chuỗi cung ứng để xem xét xem các quy định có được thực hiện đúng hay không.
Trong bản báo cáo đánh giá, các thanh tra viên của EU sẽ báo cáo về những phát hiện của họ và đưa ra các khuyến nghị để cải thiện. Nếu các cơ quan chức năng của quốc gia xuất khẩu từ chối thực hiện theo các khuyến nghị đó, EU có thể sẽ áp dụng các biện pháp mạnh hơn đối với việc nhập khẩu thủy sản từ quốc gia đó, thậm chí có thể dẫn đến lệnh cấm thương mại đối với toàn bộ ngành thủy sản của đất nước đó.
Để xuất khẩu thủy sản nuôi trồng sang EU, các cơ quan quản lý nhà nước ở quốc gia xuất khẩu cần được phê duyệt đặc biệt dựa trên Kế hoạch giám sát dư lượng (Residue Monitoring Plan – RMP). Kế hoạch này cần được các cơ quan có thẩm quyền châu Âu phê duyệt và được đánh giá riêng biệt sau 2 hoặc 3 năm. Việc tuân thủ các yêu cầu trên là bắt buộc để đảm bảo sản phẩm thủy sản xuất khẩu vào EU được chấp nhận và không gặp phải các rào cản kỹ thuật.
An Dương - vietq.vn